- Xác định cách cục trong là số tứ trụ.
- Xác định mệnh thân vượng hay suy.
- Từ tiêu chí thông tin mệnh thân suy hay nhược, việc tiếp theo là xác định dụng thần.
1/ Các loại cách cục: như cách cục hóa khí của nhật chủ , tòng cường cách, tòng tài, tòng nhi,tòng sát, ngoại cách .v.v....
2/ Xác định mệnh thân vượng hay suy:
Được lệnh: can ngày vượng khi chi tháng rơi vào các cung: trường sinh, mộc dục, quan đái, lâm quan, đế vượng gọi là được lệnh.
Đắc địa: Can ngày gặp được các chi còn lại trường sinh (can ngày phải dương), gặp lộc, kình dương (khí gốc của can tàng trong chi là tỷ hay kiếp) hoặc gặp mộ kho (can ngày dương gặp mộ kho là có gốc, can ngày âm vô khí gặp mộ kho là không có gốc)
Được sinh: Can ngày được chính ấn hay thiên ấn của các chi khác trong Tứ trụ tương sinh thì được gọi là được sinh.
Được trợ giúp: Can ngày và các can khác trong tứ trụ cùng loại gọi là ngang vai hay kiếp tài trợ giúp bản thân mình, như thế gọi là được trợ giúp.
3/ Xác định dụng thần
"Dụng thần thủ pháp", gồm có : Phù, Ức, Thông quan, Điều hậu, Bịnh dược.
Trong khoa Tử Bình cái khó nhất là tìm dụng thần hay gọi là "Dụng Thần thủ pháp". Dụng Thần tức là những gì ẩn tàng trong tháng sinh. Nhật can phối hợp nguyệt lệnh mà thành thể tính; hợp với nhu yếu của thể tính là Dụng Thần. Cái khó nhất trong Mệnh Lý là 12 cách thủ đoán dụng thần: Đối với thập can phối hợp 12 tháng , cùng với mỗi tháng , mọi nhân nguyên dụng sự đều nhất nhất phân biệt và đưa thí dụ. Thủ dụng cũng có phương thức không ngoài lý do chế hoá sinh khắc, gôp lại có thể chia thành 5 loại trên.
Thông quan thủ dụng pháp
Thông quan là ngoài Nhật chủ ra, lưỡng đầu đối trĩ (đối đầu với nhau), thế quan lực địch , khinh trọng thân sơ ngang nhau chẳng lẽ có chổ lấy có chổ bỏ, duy có cách quan thông cái khí của nó mới có thể là cái Dụng của ta được. Nghi kỵ cần thiết, tạm thời hoãn bàn không phải là không luận mà phải để ý đến cái khẩn cấp trước đã.
Thương Quan , lưỡng đình dụng Tài .
Mâu Dần - Canh Thân - Kỹ Sửu - Giáp Tý
Thu thổ khí hàn nên dụng Bính hỏa không như Dần Thân lưỡng xung , Ấn bị Tài phá chẳng thể là Dụng . Canh kim là khí đương vượng của nguyệt lệnh thấu xuất thiên can Giáp mộc tọa Tý , lâm quan tại Dần và cùng Nhật chủ tương hợp . Quan Thương thế sức ngang ngữa chẳng thể lấy chẳng thể bỏ . Duy có thể dụng Nhâm thủy trong Thân , tiết kim khí để sinh Mộc , vận hành Thủy Mộc tối mỹ . Đây là lấy thu thổ làm Thể . Tài quan làm Dụng . Một ví dụ khác .
Tài Ấn lưỡng đình dụng Quan.
Kỹ Hợi - Bính Tý - Kỹ Tỵ - Canh Ngọ
Kỷ thổ sinh ở trọng đông , thổ đóng băng cho nên đương nhiên dụng Bính . Tỵ Ngọ thành phương , Bính hỏa xuất can dương hòa đã tràn lan mặt đất . Nguyệt lịnh Tài tinh bĩnh lịnh . Hợi Tý thành phương , Tài vượng tổn Ấn . Duy chỉ có Hợi cung Giáp mộc, Quan tinh thông với khí Tài Ấn .
Lấy đông thổ làm Thể . Quan ẩn là Dụng .
Bịnh Dược thủ dụng pháp
Bịnh Dược thủ dụng pháp (dược ở đây là thuốc) là một trong năm Dụng thần thủ pháp. Ngũ ngôn Độc Bộ có nói :
"Có bịnh mới là Quý , không tỗn chẳng là kỳ,
Trong cách mà khữ bịnh , tài lộc lưỡng tương trì".
Thần Phong diễn ra thành thuyết Bịnh Dược , sự thực ra là cái ý doanh hư tiêu trưởng phối hợp hỷ kỵ . Muốn thế tứ trụ cần phải trung hòa , Quý tiện há chỉ ở chổ bịnh dược. Cái ý của Độc bộ là nói : "Có bịnh chưa đủ là hại, được thuốc cứu không trở ngại cho cái quý của nó, há có phải thực sự lấy bịnh cho là Quý đâu".
Thái cường, thái nhược đều là bịnh, phù nó ức nó là dược. Tác dụng của phù ức đã luận rõ ở trên rồi. Đây chỉ nói cái Dụng của Bịnh và Dược.
Là nguyên cục có dụng thần thích hợp nhu yếu mà bị Can khác ức chế khiến cho nó thành bịnh. Chẳng thể dụng cái thần nhu yếu mà cần khử đi cái thần gây bịnh làm dụng thì nó làm được.
Như hạ Mộc hỷ Ấn, nguyên cục kiến Nhâm Quý cực hợp nhu yếu của hạ Mộc không như biệt can thấu Mậu. Cái Mậu thổ nầy là bịnh thần cho nên chẳng thể lấy Nhâm thủy làm dụng mà cần phải lấy Giáp Mộc có khả năng khử Mậu thổ làm dụng. Giáp mộc bèn là dược vậy. Có Giáp chế Mậu, Nhâm Quý mới hiển được cái công nhuận trạch.
Cách dược khữ bịnh nầy, nguyên cục có nó chung thân hoạch phúc. Đại vận có nó thì trọn vận đó thâu hoạch được lợi ích.
Như ví dụ 1 :
Nhâm Tuất - Kỹ Dậu - Đinh Sửu - Giáp Thìn .
Đinh hỏa chiêu dụng tuy sinh Dậu nguyệt chẳng lấy suy kiệt làm kỵ. Nguyên cục có Ấn tương sinh, nguyệt lịnh Tài vượng sinh Quan là mệnh phú Quý song toàn. Không như Kỷ thổ xuất xuất can hổn trọc Nhâm thủy. Chỉ có thể thủ Giáp mộc chế Kỷ làm dụng mà chẳng thể lấy Tài quan làm dụng. Tốt ở chổ cách vị bất hợp đủ để tương chế Sửu Dậu hội cục, phú trọng quý khinh.
Ví dụ 2:
Mậu Tý - Nhâm Tuất - Giáp Dần - Canh Ngọ
Thu mộc khô điêu , Dần Ngọ Tuất hội hỏa cục Mộc thành tro bay. Mộc khô hư, cần được Nhâm thủy phá hỏa cục khả dĩ mới phú Quý được. Không như Mậu thổ xuất can chế thủy là bịnh tất cần Giáp mộc tỷ kiên khữ Mậu làm cứu. Nguyên cục vô Tỷ gọi là hữu bịnh vô dược. Hành Tỷ Kiếp vận khá tốt. Quá về sau gặp nhiều trở trệ là vì nguyên cục bịnh trọng vô dược cho nên Dụng thần thụ chế.
Ví dụ 1: có thể hiểu nôm na là trường hợp điển hình dùng Ấn để bảo vệ Quan khỏi sự xâm hại của thương quan (Quan và Thương Quan cạnh trụ)
Ví dụ 2: có thể hiểu là dùng Tỷ kiên bảo vệ Ấn khỏi sự xâm hại của Tài tinh (Tài và Ấn cạnh trụ)
Phù ức nhật nguyên thủ dụng pháp
I. Phù ức nhật nguyên thủ dụng pháp.
Mệnh lý cần nhất là trung hòa mà trung hòa do ở "phù ức". Bất cập cần sinh phù, thái quá cần ức chế.
- Phù có 2 cách: ấn thụ để sinh, tỷ kiếp để trợ.
- Ức cũng có 2 cách: quan sát để khắc, thực thương để tiết chế.
Nhật nguyên sao có lúc nên phù, lúc nên ức; nguyên do là do ở thể tính.
Xuân mộc, Hạ hỏa, Thu kim, Đông thủy, thể tính thái vượng, lấy quan sát để khắc, thực thương để tiết. Đó là lấy ức làm dụng.
Xuân kim, Hạ thủy, Thu mộc, Đông hỏa thể tính thái nhược, lấy ấn thụ để sinh, hoặc tỷ kiếp để trợ. Đó là lấy phù làm dụng.
a/ Phù nhật nguyên thủ dụng pháp .
Phù nhật nguyên không ngòai dụng Ấn, Kiếp, nhưng cái gì nên dụng Ấn, cái gì nên dụng Kiếp, cần phải xét kỹ.
Thí dụ:
Tài quan vượng, dụng Ấn.
Đinh Hợi - Bính Ngọ - Nhâm Dần - Kỷ Dậu
Nhâm thủy sinh ở Ngọ nguyệt tính cực nhược, kiến thời chi Dậu kim, như tử đắc mẫu, chuyên dụng Ấn thụ sinh Thân, nhưng Dần Ngọ hội cục, Bính Đinh xuất Can, Tài vượng phá Ấn cho nên lấy Nhâm thủy trong Hợi để chế hỏa mới có thể hiểu được cái Dụng của Kim.
Tạo nầy là lấy hạ thủy làm thể, Ấn làm dụng.
Tài vượng dụng Kiếp.
Ví dụ :
Quý Dậu - Quý Hợi - Mậu Tý - Đinh Tỵ.
Mậu thổ sinh ở Hợi nguyệt, Tài tinh đương vượng, lưỡng Quý xuất Can, thủy vượng thổ đảng, Ấn bị Tài phá cho nên không thể dụng Ấn, chỉ có thể dụng Kiếp.
Tài vượng dụng Kiếp bèn là Phú cách.
Nguyên lý phú có nói :
"Qui Lộc cách đắc tài thu họach được phúc,
Không gặp tài mà qui lộc tất là bần"
Tạo nầy lấy đông thổ làm thể, tỵ lộc làm dụng .
Điều hậu thủ dụng pháp
Theo Điều hậu của Uyên Hải Tử Bình thì “Nhật Quý sinh tháng Tuất nên dùng Tân, Giáp, Nhâm, Quý. Kết luận nên dùng dụng thần Giáp là an toàn hơn cả. Hỷ thần Nhâm Quý.”
Là một trong 5 "Dụng thần thủ pháp. Điều hậu như thế nào ?
- Thổ sinh Kim, nhưng mùa hạ thổ táo, cần phải có thủy nhuận thổ mới sinh kim,
- Kim sinh thủy mà thu đông hàn đống chi kim chẳng thể sinh thủy được cần được hỏa ôn kim mới sinh thủy.
- Mộc sinh hỏa, xuân mộc dương tráng, mộc hỏa tự phàn, cần có thủy nhuận căn bèn là mộc hỏa thông minh,
- Thủy sinh mộc , hàn đông băng đống chi thủy, thủy chẳng thể sinh mộc cần hỏa chiêu nõan mộc mới phu vinh. Về thể chất mà nói , hạ lệnh chẳng thể không có thủy, đông lệnh chẳng thể không có hỏa. Chẳng phải tương sinh mới là sinh, khắc tiết cũng là sinh, đó là điều Trích thiên tủy nói: "Nhi năng sinh mẫu".
Chỉ lúc cần điều hậu lấy điều hậu làm trọng, mấy cái khác tạm thời gác bỏ một bên, hoãn luận.
Ví dụ:
Quý Mão - Ất Sửu - Kỷ Hợi - Kỷ Tỵ
Kỷ sinh sửu nguyệt băng đống trì đường, đống thủy , khô mộc. Cái gì có thể khắc Thổ được - có Tỵ cung Bính hỏa ám tàng không chỉ có công nõan thổ mà nhân đó là một điểm dương hỏa, tài quan mới có thể sinh; cho nên không dùng Bính hỏa chẳng thể được. Đông thổ kiến Bính hàn cốc hồi xuân. Điều hậu là cấp, Tài quan hoãn luận.
tài liệu tham khảo từ tuvilyso.com /dinhvantan