Thứ Hai, 3 tháng 7, 2023

chữ tâm

  Nghĩa chữ tâm:

Tâm có hai chữ Hán là 心 và 芯 [1] ở đây là chữ 心, chữ tâm 心 là chữ tượng hình, viết kiểu tiểu triện có hình trái tim, còn viết kiểu khải thư 心 thì ở trên có ba dấu tượng trưng ba cái cuống, ở dưới là túi chứa máu. Chữ này diễn biến qua các cách viết như sau:

 

Chữ tâm (心) có rất nhiều nghĩa:

1.1. Nghĩa thông thường: (dt.) (1) Tim (heart): tâm tạng (quả tim), tâm thất (ngăn bên dưới trong trái tim). (2) Lòng, dạ, ruột, phần bên trong (inner): tâm phúc (bụng dạ); không tâm thái (rau rỗng ruột, tức rau muống). (3) Lòng, tình cảm con người (inner emotion): tâm cảm (inner feelings), tâm phục (thật lòng kính trọng vâng theo); tâm ý (lòng dạ và đầu óc); đồng tâm nhất trí (cùng một lòng, một ý). (4) Giữa (center), điểm ở giữa, quy tụ các điểm khác, thường nói về phần giữa đều gọi là tâm: viên tâm (điểm giữa vòng tròn), trọng tâm, trung tâm. (5) Tên một ngôi sao trong Nhị thập bát tú, sao Tâm, tức sao Hoả. (6) Tên một bộ chữ Hán, bộ Tâm, cũng viết là忄, khi đứng bên trái.

1.2. Nghĩa tâm lý và đạo đức: Ngày xưa, người ta ngộ nhận tâm là nguồn gốc của mọi sinh hoạt tâm lý, nên các tình trạng tư tưởng và tình cảm đều gọi là tâm: tâm tưởng (thinking); tâm tính (mood), tâm ý (idea). Ngày nay, theo các thí nghiệm tâm sinh lý, điều đó không đúng nữa. Dầu vậy, tâm vẫn còn được coi là: (1) Tượng trưng của tình cảm, tình yêu (love): ♥. (2) Khả năng nhận thức sự vật, suy nghĩ và cảm giác: tâm trí (mind). (3) Khả năng phán đoán về thiện ác theo quy luật đạo đức: lương tâm (conscience). (4) Toàn bộ các hiện tượng tâm lý, từ cảm giác đến tình cảm, hành vi, ý chí...: tâm lý (psychic), tâm trạng (mental = tâm thần). (5) Phần linh thiêng nơi con người, đối lập với thân xác: tâm hồn (spirit, soul = linh hồn); tâm linh (spiritual).

2. Tâm trong Phật giáo

Khái niệm “tâm” của Phật Giáo không đơn giản như các học giả phương Tây lầm tưởng. Tâm được xem là một trong những phạm trù quan trọng, cơ bản của Phật Giáo. Kinh Pháp Cú, vốn được xem như Kinh Thánh của Phật Giáo mở đầu như sau:“Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ. Tâm tạo tất cả”. Một cách khái quát, qua các kinh điển Phật Giáo [2] người ta có thể phân biệt sáu loại tâm:

2.1. Nhục đoàn tâm (肉團心): trái tim thịt (Phật Giáo không để ý nhiều tới nghĩa này). Ví dụ: “Hễ Bồ Tát nghe tiếng bọn người ác ngoại đạo đem lời dèm pha phá huỷ Phật giái, dường như ba trăm mũi giáo đâm vào tâm mình” (Bồ Tát Giái Kinh).

2.2. Tinh yếu tâm (精要心): chỗ kín mật, chỉ cái tinh hoa cốt tuỷ. Ví dụ: “Phật pháp lấy tâm làm gốc, lấy thân và khẩu làm ngọn” (Long Thọ Bồ Tát).

2.3. Kiên thực tâm (堅實心): là cái tâm không hư vọng, cũng gọi là chân tâm. Chỉ cái tuyệt đối, cái mầm mống giác ngộ vốn sẵn có trong mỗi chúng ta, đó là Phật tính:"Căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm. Căn bản của bồ đề niết bàn là chân tâm"(Kinh Thủ Lăng Nghiêm).

2.4. Liễu biệt tâm (了別心): gồm sáu loại nhận thức đầu trong tám thức [4], tức là tri thức giác quan và ý thức. Căn cứ phát sinh của nó là giác quan, thần kinh hệ và não bộ. Có tác dụng dựa vào với ngoại cảnh bên ngoài và phân biệt nhận thức chúng: “Tâm buồn cảnh được vui sao, tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an”.

2.5. Tư lượng tâm (思量心) còn gọi là Mạt-na thức (末那識): thức thứ bảy trong tám thức. Một trong các chức năng chính của nó là nhận lập trường chủ quan của thức thứ tám (A-lại-da thức), lầm cho lập trường này là bản ngã của chính mình, vì vậy mà tạo ra chấp ngã, là bản ngã, cái tôi của con người (ego-consciousness). Bản chất của nó là suy tính, nhưng có sự khác với thức thứ sáu. Nó được xem là tâm trạng của một lĩnh vực mà người ta không thể điều khiển một cách có chủ ý, thường phát sinh những mâu thuẫn của những quyết định tâm thức và không ngừng chấp dính vào bản ngã: “Mạt-na nhậm trì ý thức linh phân biệt chuyển, thị cố thuyết vi ý thức sở y: Mạt-na nhận lấy ý thức, khiến sinh khởi phân biệt; nên gọi nó là chỗ y cứ của ý thức” (Du-già sư địa luận)

2.6. Tập khởi tâm (集起心) còn gọi là A-lại-da thức (阿賴耶識) dịch nghĩa là tạng thức (藏識): chứa đựng mọi kinh nghiệm của đời sống mỗi con người và nguồn gốc tất cả các hiện tượng tinh thần. Là căn nguyên của mọi hoạt động nhận thức, hoạt động tâm lý; là nơi lưu trữ những hạt giống sinh ra muôn sự muôn vật, hữu hình hay vô hình. Tâm lý học phương Tây thường gọi thức này là vô thức hay tiềm thức: “Nhất thiết thế gian trung. Mặc bất tùng tâm tạo: Tất cả những gì trong thế gian. Đều là do tâm tạo” (Kinh Hoa Nghiêm).

Phật Giáo không quan niệm tâm là một cái gì thuần nhất, giản đơn theo kiểu như khái niệm linh hồn. Theo Ngũ uẩn, tâm không phải chỉ là một cục hay một khối cứng nhắc, mà là một luồng tư tưởng, một chuỗi dài tư tưởng, có sinh có diệt (khác quan niệm “hồn thiêng bất tử”), có năng lực (nghiệp lực) được chuyển từ luồng này sang luồng khác. Cái luồng tâm này với những nghiệp lực là căn bản cho sự tái sinh. Theo Vi Diệu pháp, tâm không phải là một cá thể, mà là một dòng tâm thức gồm nhiều loại tâm khởi lên rồi diệt. Khi con người còn sống thì dòng tâm thức lặng lẽ trôi chảy trong ngũ uẩn, nếu không có một tâm nào khác khởi lên. Khi chết, dòng tâm thức cuối cùng của kiếp này trở thành dòng tâm thức đầu tiên của kiếp sau. Duy Thức học khai triển thêm tâm thức là cái biết, căn bản là tạng thức, chứa đựng các loại chủng tử ... Tóm lại, dù nhìn dưới khía cạnh nào, có thể nói theo Thiền Tông: Có hai thứ tâm. Một thứ là tâm theo dòng tâm thức, khởi lên rồi diệt, vì ngũ uẩn bị mê mờ bởi tham ái, dục lạc, vọng tưởng; tâm này được gọi là Vọng tâm là tâm của chúng sinh. Hai là Chân tâm có tự tính là thanh tịnh, không sinh diệt, không dao động, thường vắng lặng, là tính giác của những vị đã giác ngộ, cũng còn được gọi là Tâm Phật.

Thứ Bảy, 3 tháng 6, 2023

VẬT PHẨM PHONG THỦY - NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT

  • Chúng ta đều biết các vật phẩm phong thủy đều có các năng lượng khác nhau mà từ đó hóa giải hay thúc vượng một khu vực khí trường cụ thể. Vì thế khi sử dụng các vật phẩm phong thủy để chiêu Tài hay hóa Sát trong nhà, chúng ta cần chú ý các vấn đề về năng lượng như sau:


  • Vật phẩm có chất liệu đá – hành Thổ: Nên sử dụng các vật phẩm có chất liệu như Thạch Anh, Mã Não, Cẩm Thạch, … ( năng lượng tùy thuộc chất lượng đá); không nên sử dụng các vật phẩm làm từ bột đá, composit, nhựa.
  • Vật phẩm có chất liệu kim loại – hành Kim: Nên sử dụng các vật phẩm có chất liệu Vàng – Bạc – Đồng (càng tinh chất , càng nhiều năng lượng); không nên sử dụng các vật phẩm có nhiều Kẽm – Chì – Nhôm.
  • Vật phẩm có chất liệu là nước – hành Thủy: Nên sử dụng nước giếng khoan nếu ở vị trí có nước sạch; nếu là nước ở hệ thống nước công cộng thì nên để lắng lọc trong 12 giờ; tốt nhất là dùng nước suối hay nước tinh khiết trong các  trường hợp dùng thủy để

    hóa giải hay thúc vượng khí.
  • Vật phẩm có chất liệu là cây, hoa – hành Mộc: Nên sử dụng các chậu, bình cây tươi, không để cây bị héo, chết; vật phẩm từ gỗ, nên dùng các loại gỗ quý, lâu năm như: Giáng hương, Dâu, Trắc, Gõ, Cẩm, Thủy Tùng …; không nên sử dụng hoa khô nhất là trong phòng ngủ vì có nhiều âm khí, hoa giả cũng hạn chế sử dụng vì để lâu ngày sẽ nhiều thổ khí.
  • Vật phẩm có chất liệu như mùi hương – hành Hỏa: Nên sử dụng các loại hương, nhang, tinh dầu có mùi dịu nhẹ( phù hợp không gian và cảm xúc của gia chủ) với chất liệu tinh dầu thiên nhiên là tốt nhất, không nên dùng loại có nhiều hóa chất gây mùi nặng; cần phải thông thoáng khí trong nhà, không nên để có nhiều mùi từ bếp hay nhà vệ sinh lan tỏa trong nhà.

  Vật phẩm PT cần phải dương hóa và tăng cường năng lượng bằng khai quang trước khi sử dụng

Dũng Nguyễn

Thứ Sáu, 19 tháng 11, 2021

Thực vật tâm linh sẽ rung động với thiền bên trong của bạn

 Thiên nhiên đóng một vai trò quan trọng trong việc chữa bệnh, cung cấp sự sống và hình thành mối liên kết tâm linh với mọi sinh vật. Thực vật là bản chất của Mẹ thiên nhiên và mang năng lượng tự nhiên của Gaia bên trong chúng. Con người đã sử dụng năng lượng này từ thời cổ đại và người Trung Quốc trong thực hành phong thủy có đề cập đến việc đặt cây một cách có phương pháp trong những không gian nhất định để giảm căng thẳng tâm lý. Năng lượng sống của thực vật thu hút sự tích cực một cách tự nhiên và mang lại cảm giác hoàn toàn mới. Mời năng lượng tích cực vào nhà bạn sẽ cải thiện sức khỏe, tuổi thọ và hạnh phúc trong cuộc sống. Dưới đây là 15 loại cây tâm linh hàng đầu mà bạn có thể mang về nhà để lan tỏa năng lượng tích cực và tạo thêm hạnh phúc.

1. Húng tây/ húng quế (Basil) 


  Được coi như một loài cây thánh ở Ấn Độ, cây Húng quế được cho là có đặc tính chống oxy hóa giúp khai thác năng lượng tích cực trong môi trường và được ưa chuộng nhất trong số các loại cây chữa bệnh tâm linh. trên bầu không khí. Hãy mang về nhà loại cây xinh đẹp này và cảm nhận sự tích cực xung quanh bạn ngay lập tức.

 2. Nha đam (Aloe Vera)

   Nếu bạn đang tìm kiếm một loại cây để bảo vệ tinh thần, thì Nha đam là một trong những loài thực vật kỳ diệu mà thiên nhiên đã ban tặng cho chúng ta. Cây nha đam phát triển mạnh ngay cả trong những điều kiện khắc nghiệt nhất vì chúng có nguồn gốc từ sa mạc. Cây nha đam có thể làm sạch không khí một cách hiệu quả và mang lại sự bảo vệ cho mọi không gian.

3. Cây Xô Thơm (Sage)


Cây xô thơm có đặc tính làm sạch đặc biệt giúp loại bỏ tất cả những cảm xúc tiêu cực bao gồm cả sợ hãi và tức giận khỏi không gian của bạn. Nếu bạn đang suy nghĩ về cách có thể thu hút năng lượng tích cực trong nhà, hãy mua một cây xô thơm và cảm nhận sự kỳ diệu của nó trong vòng vài ngày. Không chỉ có nhiều công dụng chữa bệnh mà còn có tác dụng kích thích luồng năng lượng tích cực vào nhà của bạn. Hãy đảm bảo đặt cây ở nơi khô ráo, có độ ẩm thấp.

4. Bạc hà (Mint)

   Mùi bạc hà giúp bạn sảng khoái và làm dịu các giác quan trong vòng vài giây, ngoài việc là một loại thảo mộc ẩm thực, cây bạc hà chống lại những rung cảm xấu từ những người xung quanh bạn và cũng giúp chữa chứng mất ngủ. Cây sẽ giúp bạn tìm thấy vị trí thiền định ngọt ngào trong chính mình. Nếu bạn có một ngày khó khăn, hương thơm tươi mát của lá bạc hà giúp làm dịu thần kinh của bạn và được cho là sẽ vực dậy hy vọng của bạn.

5. Cỏ Vetiver

   Một trong những loại thảo mộc tinh thần tốt nhất, cỏ Vetiver có liên quan đến việc chữa lành tinh thần cho những người bị chấn thương bằng cách tiếp đất và tăng dòng chảy năng lượng quan trọng bên trong. Loại cây này không chỉ làm sạch linh khí của một người mà còn cung cấp sự bảo vệ chống lại các loại tiêu cực. Hương thơm êm dịu của Cây cỏ Vetiver mang lại một giấc ngủ thư thái và cũng giúp xua đuổi bọ và chuột.

6. Hoa oải hương (Lavender)

   Hoa oải hương là một loài cây đẹp được cho là có tác dụng loại bỏ độc tố, giảm căng thẳng, thư giãn và kiểm soát huyết áp, cây còn được dùng để giảm bớt chứng trầm cảm và được coi là một trong những loại cây tinh thần tốt nhất. Cây oải hương cũng giúp loại bỏ năng lượng tiêu cực và thúc đẩy quá trình chữa bệnh.

7. Hoa nhài (Jasmine)  

   Loại cây này có tác dụng cải thiện tâm trạng mạnh mẽ, bạn có thể tạo thành một mái vòm tuyệt đẹp ở cổng vào hoặc một bức màn trên tường với loài cây này. và mang tất cả các loại hào quang tích cực vào vị trí của bạn.

8. Cỏ xạ hương (Thyme)

   Một trong những loại cây trồng trong nhà mang lại may mắn và chống lại năng lượng tiêu cực xung quanh bạn là Cỏ xạ hương, loại cây này được biết đến với vai trò mang lại sức khỏe và sinh khí cho ngôi nhà và cũng giúp chống lại những cơn ác mộng. Cây xua đuổi côn trùng và làm sạch linh khí trong nhà.

9. Hương thảo (Rosemary) 

   Còn được gọi là cây thanh lọc, cây Hương thảo còn có sức mạnh đẩy lùi năng lượng tiêu cực. Giữ cho ngôi nhà của bạn tránh xa các chất độc có hại, và tăng cường sức khỏe thể chất và tinh thần bằng cách giữ cây này trong nhà. Hương thơm của cây vừa đủ để tăng cường tâm trạng của ngôi nhà của bạn, chống lo âu, cải thiện trí nhớ, chữa bệnh mất ngủ và mang lại sự bình yên cho nội tâm. Bạn phải để nó ở nơi có màu sắc tươi sáng và nhiệt độ mát mẻ.

10. Tre (Lucky Bamboo)

 Loại cây này mang lại may mắn, sức khỏe cũng như tình yêu. Loại cây ưa ẩm thấp này có thể được để ở bất kỳ góc nào trong phòng và yêu cầu ánh sáng nhẹ nhàng hoặc rất thấp. Chú ý duy trì để cây ngập nước ở ít nhất 5 cm. Là biểu tượng của sự giàu có và may mắn, đây là loại cây mà bạn phải mua nếu bạn đang suy nghĩ về cách thu hút năng lượng tích cực ở nhà.

11. Hoa huệ hòa bình (Peace Lily) 

  Giống như tên gọi, Peace Lily là hướng đến sự yên bình. Giữ loài cây quyến rũ này không chỉ giúp bạn tăng cường luồng năng lượng tích cực mà còn giúp thanh lọc không khí. Ngoài ra, bạn có biết rằng Peace Lily giúp giảm đau đầu không? Tất cả những gì bạn cần làm làm là, đặt nó ở một góc đẹp trong ngôi nhà của bạn với ánh sáng vừa phải.

12. Cây Kim tiền Trung Quốc (Chinese Money Plant) - (Pilea peperomioides)

   Cây kim tiền Trung Quốc (Pilea Peperomioides) là một loại cây trồng trong nhà kỳ lạ, nó có những chiếc lá hình tròn độc đáo làm tăng thêm yếu tố vui nhộn cho ngôi nhà của bạn. Cây Kim tiền Trung Quốc có khả năng giúp đỡ những người hay mang tâm trạng lo lắng. Tuy nhiên, bạn phải luôn để 'Cây Tiền Trung Quốc' của bạn ở một nơi không bị ánh sáng mặt trời trực tiếp.

13. Cây ngọc bích (Jade Plant)

   Cây ngọc bích nở những bông hoa màu hồng đẹp nhất và là một bổ sung tuyệt vời cho khu vườn nhà của bạn nếu bạn đang tìm một loại cây tích cực mà ít phải chăm sóc. Loài cây này mang sức mạnh nâng cao tâm trạng của bạn bằng cách giảm mức độ căng thẳng của bạn. Bạn cũng nên đặt Cây Ngọc bích của mình ở lối vào hoặc cửa sau, nơi thoáng khí.

14. Cây đuôi công (Calatheas)


   Calatheas là một món ăn tốt cho thị giác, nó không chỉ tạo nên một góc nhìn đẹp đẽ mà còn chứa đầy sự tốt lành. Sự thật thú vị nhất về loài cây này là nó sẽ khép lá vào ban đêm và mở ra vào buổi sáng. Người ta tin rằng Calatheas hấp thụ năng lượng tiêu cực từ bầu khí quyển và biến chúng thành năng lượng tích cực.

15. Cây Khuynh Diệp (Eucalyptus)

   Khuynh Diệp (Bạch đàn lá tròn) là một trong những loại cây tích cực nhất ở xung quanh. Nó hoạt động như than hoạt tính đối với bất kỳ loại tiêu cực nào xung quanh nó. Bạn có thể mong đợi cây bạch đàn của mình tiêu diệt tất cả những rung cảm tiêu cực xung quanh nó và thúc đẩy một luồng khí tích cực. Hơn nữa, loài cây này hỗ trợ thúc đẩy vận may về tài chính. Vì vậy, hãy đặt một cây bạch đàn lá tròn trong nhà và để nó xử lý tất cả các năng lượng tiêu cực cho bạn.


  Cảm thấy hạnh phúc hơn, khỏe mạnh hơn và giàu có hơn bằng cách trang trí nội thất của bạn với 15 loại cây tâm linh hàng đầu sẽ thực sự chứng minh được điều kỳ diệu.




Chủ Nhật, 24 tháng 10, 2021

Bát Tiên ứng với Bát Quái (phần 3)

5. Hàn Tương Tử 

Hàn Tương Tử sống vào thời nhà Đường. Ông là cháu của Hán Vũ Đế, người nổi tiếng vì đã viết bài phê phán Hoàng đế ôm đồm theo đạo Phật. Han Xing Zi là một học giả và một nhạc sĩ cũng chơi sáo trúc. Khi chú của ông bị lưu đày vì tội phê bình, Hán Tương Tử cũng bị lưu đày, mất chức học sĩ. Gia đình đi đến miền Nam Trung Quốc, nơi một ngày nọ ở làng quê, anh được mời vào nhà dùng bữa. Ở đó, anh gặp một cô gái trẻ xinh đẹp, người cũng thổi sáo và yêu cô ấy đến điên cuồng. Tuy nhiên, cô ấy đã được nói cho. Tuyệt vọng vì mất cô ấy, anh ta đi đến một hồ nước gần đó và dự tính sẽ tự chết đuối. Sau đó anh nghe thấy tiếng sáo. Anh nhìn và thấy một người đánh cá đang chơi trong khi ước ao. Hấp dẫn, Han nói với anh ta. Người đánh cá nói với anh ta rằng có một cây sáo huyền diệu trong hồ sẽ tự phát hiện nếu nó nghe đúng âm nhạc. Han bắt đầu chơi một giai điệu âm thanh, nhưng một giai điệu đầy cảm xúc, và cây sáo hồ đã bộc lộ chính nó cho anh ta. Anh ta trở thành người sở hữu cây sáo và bắt đầu dạy cho anh ta khái niệm Đạo giáo về sự thay đổi phù hợp với những thay đổi của thế giới. Khi Han Xiang Zi đi du lịch, anh ấy đã gặp Lu Dong Bin và trở thành học trò của anh ấy và sau đó trở thành một Đạo sĩ Bất tử.

 Han Xiang Zi được coi là người bảo trợ cho các nhạc sĩ. Ông thường được miêu tả đang cầm một cây sáo ngọc. Ông cũng tượng trưng cho tình yêu thiên nhiên và sự đơn độc. Ngài là hiện thân của Đạo sĩ ẩn cư trên núi, Ngài thuộc về những hang động hẻo lánh, ẩn hiện trong sương mù, nơi Ngài nhấm nháp sương lúc nửa đêm, thưởng thức những đám mây rực rỡ trong buổi bình minh và tan ngọc bằng tiếng sáo của Ngài. [3] Han được miêu tả như một người bảo vệ những người theo chủ nghĩa nịnh hót vì tiếng sáo của anh ấy mang lại sự sống và chơi Six Healing Sounds. Ông thường được hiển thị trên một con trâu.


bat tien trong dao lao trung hoa 6

Hàn Tương Tử là người có biệt tài thổi sao nên được gọi là "Học Sỹ thổi tiêu", ông đã sáng tác những bản nhạc êm dịu từ ống sáo thần. Ông sống dưới thời nhà Thương, là bạn có Lã Động Tân và cũng nhờ đó tu đắc đạo. Tiếng sáo thần thu hút những điềm lành bao quanh ông, vì thế mà tất cả muông thú, côn trùng, cây cỏ đều phát triển mạnh mẽ khi ông xuất hiện. Khả năng đặc biệt của Hàn Tương Tử là có thể làm cho cây cối mọc nhanh trong tích tắc.

Hàn Tương Tử - Địch Tiêu (cây sáo ngang)

“Tử tiêu thổi ra âm thanh có thể ổn định hàng trăm cơn sóng lớn mạnh”, chiếc sáo của Hàn Tương Tử có khả năng khiến vạn vật sinh sôi nảy nở.

Thuộc Cung: tốn,               Biểu tượng: sáo, ngọc tiêu

Bài giảng Đạo Giáo (Daois teaching) : Nghệ thuật (Arts)

Mount: Con Trâu (Buffalow)  Hàn Tương Tử cưỡi chim Công

6. Hà Tiên Cô

Hà Quỳnh hay Hà Tiên Cô quê ở huyện Tăng Thành, tỉnh Quảng Châu, đời nhà Thương, đây là vị nữ tu chính xác duy nhất trong Bát Tiên (do Lam Thể Hòa không biết là nam hay nữ).

bat tien trong dao lao trung hoa 8

Tương truyền lúc còn nhỏ bà vốn được gọi là Hứa Sinh (là tên con trai), sau mới được coi là nữ (nhiều tài liệu cho rằng bà đã cải giống chuyển từ nam thành nữ). Bà rất có hiếu, một lòng phụng dưỡng mẹ già ốm đau, nhờ đó mà đắc đạo thành tiên.Khi còn bé, vị tiên này có 6 cái xoáy trên đầu mà ai cũng cho là kỳ tướng. Sau khi thành tiên, Hà Tiên Cô thường cầm hoa sen linh thiêng và cây phất trần. Nếu thờ bà trong nhà thì những người phụ nữ lớn tuổi trong gia đình sẽ gặp nhiều may mắn, hoa sen và trái đào biểu thị cho sự sung túc và trù phú.

Hà Tiên Cô - Liên Hoa (đoá sen)

“Tay cầm liên hoa, không vướng bụi trần”, bông sen của Hà Tiên Cô có khả năng tu tâm dưỡng tính.

Thuộc cung: Khôn

Pháp bảo: bông sen

Bài giảng Đạo Giáo (Daois teaching) : sự nuôi dưỡng (Female Cultivation)


7. Lam Thái Hòa

Tương truyền Lam Thể Hòa (hay còn gọi là Lam Thái Hòa) do Xích Cước Đại Tiên đầu thai xuống trần, có hình dáng cậu bé trai (hoặc bé gái trong nhiều dị bản), tay xách giỏ hoa, thường mặc áo rộng màu xanh, buộc dây lưng đen, một chân đi đất, một chân mang giày, mùa hè mặc áo bông mà không biết nóng nực, mùa đông chỉ mặc áo đơn mà không biết lạnh.

bat tien trong dao lao trung hoa 7

Thực tế không phân biệt được Lam Thể Hòa là nam hay nữ nên dân gian coi ông là bán nam bán nữ. Ông sinh vào cuối thời Thương và đắc đạo sau một trận say túy lúy, trời long đất lở, ông được một con ngỗng trời đưa về trời.Thường ngày, ông ra chợ, vừa ca vừa gõ nhịp, để xin tiền bố thí. Những bài ca do ông tự đặt ra đều có ý khuyên người đời bỏ dữ theo lành. Tiền xin được, ông cột vào dây lưng và bố thí cho người nghèo khổ. Lam Thể Hòa là một vị tiên mang đến sức khỏe và niềm vui cho gia đình.

“Thứ cất chứa trong giỏ hoa không phải là vật của phàm trần”, chiếc giỏ của Lam Thái Hòa có khả năng quảng thông thần minh, giúp chư Thần gia tăng sức mạnh.

Thuộc cung: Cấn

Pháp bảo: Giỏ hoa

Bài giảng Đạo Giáo (Daois teaching) : cuộc sống không bị cản trở (unencumbered life)

8. Tào Quốc Cữu 

Tào Quốc Cữu

bat tien trong dao lao trung hoa 5Tào Quốc Cữu (Tào Hữu), em ruột của Tào Thái hậu, đời vua Tống. Ông có nghề gõ phách nhịp, nên còn được xưng tụng là ông Tổ của các kịch sỹ, diễn viên. Ông kết bạn với Hán Chung Ly và Lã Động Tân sau đó từ bỏ vinh hoa phú quý và tu tiên. Ông thường mặc một chiếc áo nhà quan quý phái, toát lên vẻ cao quý, thanh nhã.

- Ngọc Bản (miếng ngọc)

“Ngọc bản thanh tẩy, tịnh hoá vạn vật”, tấm ngọc của Tào Quốc Cửu có khả năng thanh tẩy, tịnh hoá mọi vật chung quanh.

Thuộc cung: Chấn

Pháp bảo: thủ quyến

Bài giảng Đạo Giáo (Daois teaching):  (hermits tradition)



https://www.internalartsinternational.com/free/eight-daoist-immortals-eight-trigrams-part-2/


Bát Tiên ứng với Bát Quái (phần 2)

   Bát Tiên là những nhân vật nguyên mẫu hấp dẫn, hiện thân của Bát quái đồ trong Kinh Dịch, và các khía cạnh khác nhau của ý thức và tính cách con người. Những câu chuyện của họ và đặc điểm tính cách của họ minh họa nhiều về Đạo và bản chất của chính chúng ta. 


1. Chung Li Quyền

  Chung Li Quyền là một trong những vị  cổ xưa nhất trong Bát Tiên và là thủ lĩnh chính thức của nhóm. Chung Li Quyền đã thực sự sống. Ông là một vị tướng trong triều đại nhà Hán (207 trước Công nguyên - 220 sau Công nguyên), do đó ông còn được gọi phổ biến là Hán Chung Li. Ông thường được miêu tả với bộ râu, ngực và bụng để trần và cầm một cái quạt Ba Tiêu. Quạt của ông có khả năng thần kỳ hồi sinh người chết. Chiếc quạt Ba Tiêu này cũng có thể điều khiển lực lượng của bảy biển và sự thay đổi của thời tiết. Anh ta đôi khi được mô tả ngồi trên Kì Lân. Ông được cho là người đã phát minh ra viên thuốc trường sinh bất tử. Đôi khi anh còn cầm một quả đào, tượng trưng cho sự bất tử. Ông là biểu tượng của tuổi thọ.

  Chung là một vị tướng đã chiến đấu chống lại các bộ lạc du mục ở biên giới phía Tây của Trung Quốc. Trong một trận chiến, quân của ông đã bị đánh bại nặng nề và buộc phải rút lui. Ông đã quy y trong một tu viện. Sau đó tại một nhà hàng địa phương, anh gặp một bậc thầy Đạo giáo, người đã khai sáng cho ông, cho ông thấy sự trống rỗng của đấu tranh và chiến tranh. Ông đã vỡ mộng và quyết định từ bỏ cuộc sống ràng buộc với nghĩa vụ của mình. Ông cởi bỏ quần áo, để ngực và xõa tóc, một biểu tượng dễ thấy của việc giải phóng sự ràng buộc này. Do đó, Chung Li Quyền thường được miêu tả với bộ ngực trần và mái tóc xõa, đang tự quạt cho mình bằng một chiếc quạt khổng lồ.

  Có rất nhiều câu chuyện về việc Zhang trở thành một người bất tử. Trong một lần, khi đang thiền định, một chiếc hộp đựng bằng ngọc bích đã đến trong túp lều của anh ta với hướng dẫn chế tạo viên thuốc trường sinh bất tử. Sau khi làm ra viên thuốc, ông đã lên trời trên một đám mây hoặc một con hạc.

Chung Ly Quyền, hiệu là Vân Phòng, làm đại tướng trong triều đình nhà Hán nên còn được gọi là Hán Chung Ly hay Hớn Chung Ly. Ông có thân hình mập mạp, bộ râu xoăn và đôi mắt khoan hòa, mặc chiếc áo phanh trần, để lộ chiếc bụng tròn.

bat tien trong dao lao trung hoa 3

Ông là vị tiên luyện nước thánh và tay phe phẩy chiếc quạt thần dùng để cứu người bệnh. Chung Ly Quyền tượng trưng cho sức khỏe và quyền năng chữa bệnh.

Bát Quái: Càn ;  Biểu tượng : Quạt Ba Tiêu

Hán Chung Ly - Phiến Tử (chiếc quạt)

“Khinh dao tiểu phiến lạc đào viên” (chỉ cần lắc nhẹ chiếc quạt cũng vui vẻ), chiếc quạt của Hán Chung Ly có khả năng cải tử hồi sinh.

Bài giảng Đạo Giáo (Daois teaching) : Alchemy:/'''´ælkəmi'''/, Thuật giả kim, thuật luyện đan

2. Lữ Đồng Tân

   Lữ Đồng Tân là một trong những người nổi tiếng nhất của Người bất tử. Mẹ của Lữ Đồng Tân được cho là đã mang thai từ một con Crane. Lu là một thần đồng, người đã đọc tất cả các tác phẩm kinh điển khi mới sáu tuổi. Tuy nhiên, ông đã tham dự các kỳ thi của triều đình hai lần và không thành công. Sau lần thất bại thứ hai, anh ta đã uống rượu trong một quán trọ địa phương. Lã Bất Vi Trung Lý Quân cũng ở trong nhà trọ và anh ta đến uống rượu với Lữ Đông Bân. Lu đã uống quá nhiều, có lẽ do thất vọng khi thi trượt. Anh ta ngủ thiếp đi và mơ vào lần thử thứ ba rằng anh ta đã vượt qua kỳ thi. Trong giấc mơ của mình, anh đã đạt được một vị trí quyền lực và có một gia đình lớn. Nhưng anh ta cũng khiến Hoàng đế tức giận, người đã xử tử cả gia đình anh ta. Khi tỉnh dậy, anh nhận ra rằng tương lai được tiết lộ trong giấc mơ của anh không phải là con đường này và anh sẽ đi theo con đường của Đạo giáo. Anh trở thành đệ tử của Chung Li Quyền và cuối cùng trở thành một trong Bát Tiên.



   Lữ Đồng Tân gắn liền với tuổi thọ, chữa bệnh và các phép thuật mạnh mẽ. Các nguồn văn học đầu thời nhà Tống miêu tả ông như một nhà thơ, nhà thư pháp, người chữa bệnh, nhà giả kim, người đánh răng, trừ tà và kiếm sĩ. Vào thế kỷ 12, ông trở thành đối tượng của một giáo phái.  Anh ta mang theo một thanh kiếm, zhanyaoguai (kẻ giết quỷ), mà anh ta sử dụng để chống lại các linh hồn ma quỷ, nhưng cũng tượng trưng cho việc cắt xuyên qua bản ngã, ảo tưởng và ham muốn. Lã mang theo một chiếc roi ruồi, tượng trưng cho khả năng bay của anh ta. Ông tượng trưng cho kiến ​​thức uyên bác. Đôi khi anh ta được miêu tả đang cưỡi một con Hổ.

Ông xuất thân Đạo gia nên thường sử dụng phất trần và kiếm phép. Kiếm phép là kiếm biết bay và nghe theo lời ông sai khiến. Ông được tôn là ông tổ của nghề thợ cạo.

la dong tan 4

Là một học giả ẩn dật được tôn sùng như thần hộ mệnh của những người bệnh, thanh kiếm của ông có phép thuật để xua đuổi những linh hồn quỷ dữ và loại bỏ những nguồn năng lượng xấu. Tay phải ông cầm phất trần để chữa bệnh. 

Thuộc Cung: khảm 
Lã Động Tân cưỡi Hạc tiên , có sách nói là Hổ (Tiger)

Lã Động Tân- Bảo Kiếm (  có sách nói là phất trần và thuần dương kiếm)

“Kiếm hiện linh quang, yêu ma quỷ quái đều sợ hãi”, thanh bảo kiếm của Lã Động Tân có khả năng tránh tà, đuổi ma.

Bài giảng Đạo Giáo (Daois teaching) : tâm linh (Spirituality)


3. Lý Thiết Quải

Nhiều câu chuyện về Li Tie Guai miêu tả anh ta đã được Lão Tử dạy. Lão Tử có chủ đích dạy Lý thuật giả kim. Trong một câu chuyện, Lão Tử đưa cho Li một viên thuốc giúp anh ta có thể đi nhanh hơn chim én và bay trong không khí. Trong một truyền thuyết khác, Lão Tử đã tặng Li món quà trường sinh bất tử và một lọ thuốc không bao giờ cạn và có thể phục hồi mọi bệnh tật.


Có lẽ câu chuyện nổi tiếng nhất về Li Tie Guai giải thích tại sao anh ta được miêu tả là một kẻ tàn tật. Một ngày nọ khi đang thiền định, Lý nói với đệ tử của mình rằng anh ta sẽ rời bỏ xác của mình trong bảy ngày. Ông yêu cầu người đệ tử trông nom xác ông trong bảy ngày. Nếu anh ta không trở lại vào ngày thứ bảy có nghĩa là anh ta đã phi vật chất hoàn toàn và trở thành bất tử và sẽ không trở lại. Trong trường hợp này, người đệ tử nên đốt xác mình. Người đệ tử đã xem thi thể, nhưng vào ngày thứ sáu anh ta nhận được tin rằng mẹ anh ta đang rất ốm và anh ta cần thiết nên anh ta quyết định Li có lẽ sẽ không trở lại và đốt xác. Khi trở về, Li buộc phải nhập vào cơ thể duy nhất hiện có, xác của một người ăn xin tàn tật, vô gia cư đã chết vì đói.





Là một người tàn tật, anh ta sử dụng nạng để đi bộ. Tên của Li Tie Guai theo nghĩa đen có nghĩa là “Li nạng sắt”, vì anh ta mang theo một chiếc nạng sắt, đôi khi anh ta dùng làm vũ khí. Li Tie Guai cũng mang theo một quả bầu, tượng trưng cho việc sử dụng các loại thảo mộc và tiên dược. Anh ta là một người ăn xin với một tính khí nóng nảy, người sẵn sàng đấu tranh cho quyền lợi của những người bị áp bức. Ông ta là một ông già bất cần và khó đoán, nhưng đôi khi có thể là một nhân vật giống như một chú hề. Đôi khi ông được miêu tả đang cưỡi một con rồng.

Trong Bát Tiên thì Lý Thiết Quải là vị Tiên đắc đạo đầu tiên và sau đó có công giúp các vị kia thoát tục thành Tiên. Vì thế, người ta còn nói Lý Thiết Quải là vị Tiên đứng đầu bảng của Bát Tiên. 

bat tien trong dao lao trung hoa 2

Lý Thiết Quả: họ Lý, tên là Huyền, hiệu là Ngưng Dương, nên thường gọi là Lý Ngưng Dương, diện mạo nghiêm trang, tính khí ngay thẳng, trong sạch, học rộng biết nhiều, không theo đuổi công danh mà muốn đi tu Tiên. Biết được Lão Tử đang dạy đạo trên Hoa Sơn, Lý Ngưng Dương liền tìm đến xin học. Chính vì thế mà hình ảnh của ngài tượng trưng cho trí tuệ và sự sáng suốt.

Thuộc Cung:  Ly        Biểu tượng : cái nạng sắt (Iron Clutch)

Bài giảng Đạo Giáo (Daois teaching) : di chuyển tinh thần (spirit travel)

Lý Thiết Quải - Hồ Lô

“Trong hồ lô có chứa ngũ phúc”, hồ lô của Lý Thiết Quải có thể cứu giúp chúng sinh.


4. Trương Quả Lão

Zhang Guo Lao, nghĩa đen là "Lão Zhang Guo" được cho là đã thực sự sống vào thời nhà Đường. Ông là một người giao hàng lớn tuổi, người đã vận chuyển hàng hóa trên con lừa của mình. Một ngày nọ, anh ta đi ngang qua một ngôi đền và đi vào trong. Không có ai ở đó, nhưng có một nồi lớn nấu canh. Zhang Guo Li quyết định ăn súp và đút một ít cho con lừa của mình. Món súp chứa tinh thần của He Shou Wu, một loại thảo mộc được chú ý là có đặc tính nâng cao tuổi thọ. Vị linh mục đã nấu súp quay lại và thấy Zhang Guo Lao đang ăn hết súp và đuổi theo Zhang. Zhang bỏ đi trên lưng con lừa của mình, nhưng lùi lại và cùng nhau anh ta và con lừa chạy trốn. Khi họ chạy, họ đột nhiên bay lên thiên đường và cả hai đều trở thành Bất tử.



Con lừa của Zhang Guo Lao có thể chở anh ta đi hàng nghìn dặm trong chốc lát. Anh ta thường cưỡi ngựa quay mặt về phía sau. Khi đến đích, anh ta thu gọn con lừa lại, gấp nó lại như một tờ giấy và cất vào túi. Khi sẵn sàng đi du lịch trở lại, anh ta lấy nó ra và làm ẩm nó bằng nước, biến nó trở lại thành một con lừa. Biểu tượng của ông là một ống tre có chứa đũa phép hoặc "lông phượng hoàng", mà ông có thể báo trước những điều may mắn và bất hạnh. Anh ta cũng mang theo một cái trống ống tre. Anh ấy giúp đỡ mang theo trẻ em, đặc biệt là các bé trai, vì vậy hình ảnh của anh ấy thường được treo trên giường của các cặp đôi mới cưới. Ông thường được miêu tả là một ông già.

Là một lão tiên chuyên nghề thuật sĩ và những lĩnh vực huyền bí. Vật tiêu biểu là cái trống cơm và con lừa mà ông luôn cưỡi nhưng ngồi ngược. Khi không cưỡi, ông gói con lừa lại cho vào một cái bị cói đeo kè kè sau lưng.

bat tien trong dao lao trung hoa 4

Trương Quả Lão tay mang một nhạc cụ giống như ống tre. Ông nắm giữ sự thông thái của tuổi già. Ông được tôn là nhà hiền triết, ban sự thông thái, minh mẫn cho những người cao tuổi trong gia đình.

Thuộc Cung:  Đoài        Biểu tượng : con lừa (Donkey)

Bài giảng Đạo Giáo (Daois teaching) : Divination: / ¸divi´neiʃən /, Tính từ: sự đoán, sự tiên đoán; sự bói toán, sự tiên tri, lời đoán đúng, lời đoán giỏi; sự đoán tài,

Lông Phượng Hoàng

Trương Quả Lão - Ngư Cổ (cái mõ hình con cá)

Bảo vật ngư cổ (trống cả) của Trương Quả Lão có thể nói về mạng sống của con người. “Gõ vào Ngư Cổ sẽ vang lên phạm âm”, nghĩa là có thể đoán trước sự việc xảy ra trong một đời người.






https://www.internalartsinternational.com/free/eight-daoist-immortals-eight-trigrams-part-2/

https://www.tourtrungquoc.net.vn/van-hoa-am-thuc/8-vi-tien-bat-tu-cua-dao-lao-o-trung-hoa.html


Bát Tiên ứng với Bát Quái (phần 4)

  Bát Tiên trong Đạo Giáo là những nhân vật nguyên mẫu hấp dẫn, những người thể hiện các khái niệm của Bát quái trong Kinh Dịch, cùng các khía cạnh khác nhau của ý thức và tính cách con người. Những câu chuyện của tám vị và đặc điểm tính cách của họ minh họa nhiều về Đạo và bản chất của chính chúng ta. 

   Theo Tiến sĩ Bao Lin Wu, người dạy môn võ thuật, thanh kiếm quay tròn của Bát Tiên: “Qua nhiều thế kỷ, mỗi nhân vật trong Bát Tiên đều được phân loại cẩn thận, bắt buộc phải phù hợp với một quái phù hợp với sức mạnh, tính cách của người đó, kỹ năng và tâm lý bên ngoài. Mỗi người cũng sử dụng một dạng Khí công và võ thuật cụ thể để có được một bản chất đặc biệt, hơn nữa, gắn liền với bát quái. Không chỉ liên kết với một trong tám quái, họ kết hợp kết cấu của các bát quái khác, để mỗi bát quái có thể thành công, giao nhau, thích nghi và thay đổi vị trí với tất cả các bát quái khác ”.

  Một phương pháp kết nối Bát quái là sử dụng cấu hình Tiên thiên Bát quái đã được hình trước đó. Cấu hình này kết nối các khía cạnh của bản chất bên trong của chúng ta với Bát quái và bản chất bên trong nguyên mẫu của Bát quái:


   Cách phổ biến nhất để kết hợp Bát Tiên và Bát quái là trong đồ hình  Bát quái Hậu thiên. Trong đồ hình này, Hà Tiên Cô đại diện cho âm-nữ và do đó nó liên kết với Khôn-Địa ở phía Tây Nam. Lý Thiết Quài, có tính khí nóng nảy, bốc lửa của anh ấy đã nằm ở phía Nam, trong khi trưởng nhóm, bình tĩnh hơn, Trương Quả Lão lại ở phía Bắc. Chung Li Quyền ở phía Đông, nơi Trung Quốc gặp biển, với sự khuấy động của biển, quạt điều khiển thời tiết. Lữ Đồng Tân với những câu thần chú của mình và thanh kiếm giết quỷ ở phương Tây, theo truyền thống là nơi trú ngụ của các thế lực ma thuật. Hàn Tương Tử với cây sáo ngọc của mình ở phía Đông Nam, liên kết với Gió bát quái và Lam Thái Hòa trấn thủ phía Tây Bắc và Tào Quốc Cữu phòng thủ phía Đông Bắc. 
   Bát Tiên kết hợp với Bát quái và phương hướng cụ thể của họ tạo ra một sơ đồ chiến đấu ma thuật của Đạo giáo được gọi là Bát Thần Đồ - Battle Chart trong Bát quái. Theo truyền thuyết, trận đồ Bát quái đầu tiên được tạo ra bởi một Hoàng đế và được nhiều chiến lược gia sửa đổi cho đến khi hoàn thành bởi chiến lược gia nổi tiếng Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc (220 - 280). Sự hình thành bí mật này kết hợp hệ thống trường chín hình vuông với Bát quái đồ cũng như kiến ​​thức về thiên văn và địa lý. Có một kè đá dài 1.500 mét (0,9 dặm) và rộng 600 mét (0,4 dặm), nằm cách huyện Fengjie khoảng 1 km (0,6 dặm) về phía đông, tại nơi Suối Mai hợp lưu với sông Dương Tử. Với những tảng đá được xếp chồng lên nhau một cách ngẫu nhiên, bờ kè được cho là Trận địa Bát quái nơi Gia Cát Lượng khoan quân.

   Dựa trên sự sắp xếp này, trong Phong Thủy, Bát Quái Đồ mỗi người trấn giữ một phương tám hướng. Sự hiện diện của họ trong nhà được cho là để đảm bảo Phong thủy tốt. Bát Tiên được cho là sẽ mang lại tuổi thọ, vận may, con cháu hiếu thảo, giàu có, công danh tốt và được mọi người công nhận. Họ cũng tạo ra lòng từ bi và sự hào phóng của tinh thần. Bởi vì họ siêu việt, họ đại diện cho những điều tích cực, trong sáng và tiếp thêm sinh lực. Dưới đây là một sơ đồ Phong thủy điển hình với Bát Tiên như các vị thần bảo hộ trong nhà:


Tiên và Chân Nhân

   Các tác phẩm được cho là của Trang Tử (Trang Tử) cho chúng ta biết rằng Chân Nhân (Zhen Ren) có “trái tim kiên cường, khuôn mặt điềm tĩnh, lông mày rõ ràng. Chúng mát mẻ như mùa thu, ấm áp như mùa xuân; họ hài lòng và tức giận đều đều trong bốn mùa, làm điều gì hợp với việc khác, và không ai biết điểm cao của họ. ” Người đàn ông đích thực của tuổi già:

   Chân Nhân (Zhen Ren), một con người thực sự, hòa hợp với các chu kỳ của tự nhiên và do đó không buồn phiền trước những thăng trầm của cuộc sống. Hòa hợp với thiên nhiên và với chu kỳ của âm dương, Chân Nhân không bị chúng nhân quấy rầy hay làm hại. Điều này đôi khi được thể hiện bằng sự cường điệu - Chân Nhân không thể chết chìm trong đại dương cũng như không bị lửa thiêu rụi. Trang Tử tiếp tục ám chỉ rằng có những cách tu luyện hoặc nhân loại chân chính và tự nhiên. Thông qua các phương pháp này, chúng ta:

Học cách nuôi dưỡng cội nguồn tổ tiên của sự sống ở trong chúng ta. 
Chúng ta học cách xác định trung tâm đó có chức năng như một trục ổn định mà xung quanh đó là các chu kỳ của sự hỗn loạn cảm xúc. Bằng cách duy trì bản thân như một trọng tâm thay đổi và phản hồi, chúng ta có thể duy trì sự bình tĩnh mà không từ bỏ hoàn toàn cảm xúc của mình. Chúng ta thích cưỡi rồng mà không bị nó ném xung quanh. 
  Thông thường, chúng ta bị vây quanh như những đám mây trong một cơn bão, tuy nhiên, bằng cách giữ chặt bản chất tổ tiên của chúng ta, và bằng cách tuân theo bản chất của môi trường - bằng cách “hòa hợp thiên nhiên với thiên nhiên” - chúng ta giải phóng mình khỏi sự thương xót của hoàn cảnh ngẫu nhiên.

   Nhà tâm lý học Robert Santee mô tả sự thiếu hòa hợp với nhịp điệu tự nhiên của thế giới là một trạng thái căng thẳng mãn tính:

   Khi chúng ta can thiệp vào quá trình thay đổi và biến đổi tự nhiên, theo chu kỳ thông qua suy nghĩ, mong muốn, cảm xúc, hành vi và lối sống của chúng ta, chúng ta phân mảnh tâm trí, cơ thể và môi trường. Chúng ta làm cho thế giới của chúng ta trở nên phức tạp, tuyệt đối và không linh hoạt. Chúng ta đang mất cân bằng. Do đó, chúng ta không tập trung, gốc rễ hoặc linh hoạt. Chúng ta bị căng thẳng kinh niên. Chúng ta không hòa hợp với Đạo. 

Trong Trang Tử, Khổng Tử mô tả Chân Nhân là “người phiêu diêu tự tại” - người thực sự tự do, trong khi bản thân ông ta là “loại người lang thang trong các hướng dẫn” - một trong những kẻ bị lên án bởi bản án của Thiên đàng. ”

   Bát Tiên đóng vai trò như những ví dụ điển hình về hành trình sống bên trong của chính chúng ta. Tám nhân vật nguyên mẫu này thách thức việc mô tả tính cách dễ dàng, đó có lẽ là niềm say mê của chúng ta đối với họ. Không phải tất cả họ đều bắt đầu cuộc sống trong những hoàn cảnh giống nhau Họ đạt được sự vĩ đại và quan điểm của họ như một tác dụng phụ của sự bất tử của họ. Do đó, cam kết của họ đối với Đạo giáo không phải là lý thuyết, mà dựa trên sự nội tâm của họ đối với Đạo và về Vô Vi (không can thiệp). Điều này cho phép họ phản ứng dễ dàng và thoải mái với những thách thức của thế giới.

   Cơn say của Bát Tiên cũng giống như trạng thái hoàn hảo của người hoàn thiện. Sự ngây ngất say sưa bên chén rượu và những chuyến phiêu diêu tự tại và thong dong trong cuộc vui uống bất tử đầy may rủi từ bình rượu của họ là những ẩn dụ cho sự không giao thoa và hài hòa với sự thay đổi và biến đổi.

   Người chăn cừu Huang Chu Ping đã gặp một đạo sư Đạo giáo và đi theo ông ta đến hang đá trên núi Kim Hoa. Bốn mươi năm sau, người anh trai đi tìm kiếm và đã tìm thấy ông ở đó. Tại một thời điểm trong cuộc đoàn tụ của họ, anh trai đã hỏi Chu Ping chuyện gì đã xảy ra với con cừu mà anh đang chăn dắt. Chu Ping nói với anh rằng chúng đang ở phía đông của ngọn núi. Khi anh trai anh nhìn vào đó, anh chỉ thấy những tảng đá trắng. Anh ta quay lại và nói với Chu Ping không có cừu. Chu Ping khẳng định có cừu, nhưng anh trai của anh không thể nhìn thấy chúng. Họ đi cùng nhau và Chu Ping hét lên. "Cừu dậy đi!" Những tảng đá dựng đứng và có những con cừu. Lúc đó người anh mới nhận ra rằng Chu Bình là một vị Tiên siêu việt. Sau đó ông đã tự mình đắc Đạo thông qua Chu Ping. 

   Tu sĩ Daoist Kristofer Schipper chỉ ra thông điệp đơn giản của câu chuyện: “bất kỳ ai cũng có thể trở thành Tiên. Người ta chỉ phải thoát khỏi những rắc rối khi nuôi những con cừu đó - những con vật này tự sinh sôi nảy nở một cách hoàn hảo. "


https://www.internalartsinternational.com/free/eight-daoist-immortals-eight-trigrams-part-4/

Bát Tiên ứng với Bát Quái (phần 1)

  Bát Tiên trong Đạo Giáo là những nhân vật nguyên mẫu hấp dẫn, hiện thân của Bát quái đồ trong Kinh Dịch, và các khía cạnh khác nhau của ý thức và tính cách con người. Những câu chuyện của họ và đặc điểm tính cách của họ minh họa nhiều về Đạo và bản chất của chính chúng ta. 

  Giới thiệu

   Bát Tiên (八仙) đi khắp thế giới trong tình trạng say xỉn liên tục. Có vô số bài thuốc giải độc, câu nói và câu chuyện về  Bát Tiên và chúng được mô tả trên màn hình, bình hoa, đĩa, tranh vẽ và bùa hộ mệnh. Các đền thờ Đạo giáo có tượng của họ và chúng được lãng mạn hóa trong các tiểu thuyết và trên phim ảnh. Họ có một vị trí nổi bật trong nhiều ngôi đền Đạo giáo để xua đuổi ma quỷ và thường được nhìn thấy trong nhà để cân bằng Phong thủy của một căn phòng. Hình ảnh của Bát Tiên được treo trong các dịp lễ như đám cưới hoặc ngày kỷ niệm. Theo truyền thống, một hình ảnh của Bát Tiên được treo trên lối vào, vị trí cho nghi lễ diễn ra vì họ được coi là những vị thần thông hành. 

   Những người bất tử thường được mô tả là có thể bay đến các vì sao và một số cưỡi rồng hoặc sếu khi họ bay qua các tầng trời. Trong Đạo giáo, sếu đầu đỏ là biểu tượng của sự trường thọ và bất tử. Trong nghệ thuật và văn học, những người bất tử thường được miêu tả cưỡi trên mình những con sếu. Tương tự như vậy, một người phàm đạt được sự bất tử cũng bị cẩu đưa đi. Phản ánh sự liên kết này, sếu đầu đỏ được gọi là Tiên Hạc (仙鶴), nghĩa đen là "hạc của những người bất tử."

   Thuật ngữ Tiên có nhiều cách sử dụng và có thể có nghĩa là một người siêu việt về tinh thần, hoặc bất tử về thể chất. Nó có thể đề cập đến một thuật sĩ, nhà ảo thuật, thầy cúng hoặc nhà giả kim, nhưng cũng có thể để chỉ một thần đèn, tiên nữ hoặc tiên nữ. Hiền nhân hay ẩn dật, sống trên núi cao, là chủ đề phổ biến trong văn hóa Trung Quốc.

   Chiết tự chữ Hán của Tiên (Bất tử) bao gồm hai phần: “người” 亻 (人 ren) và “núi” (山 Shan). Một biến thể cũ hơn là ký tự: 僊. Do đó, ký tự này có thể dịch ra là “người của núi” hoặc “núi của con người”, đề cập đến cả sự kết hợp của những Người bất tử với những người ẩn dật trên núi và vị trí của họ trong tư tưởng Đạo giáo như là hiện thân của thiên nhiên và các lực lượng tự nhiên. Kristofer Schipper cho biết thêm rằng về mặt ngữ âm, Tiên có nguồn gốc từ gốc nghĩa là “thay đổi”, “tiến hóa” và “đi lên”, đề cập đến sự biến đổi, tiến hóa hoặc “thăng thiên.”  Vì vậy, Tiên có thể có nghĩa là “ hoàn thiện ”hoặc“ siêu việt. ” Con người đạt đến thành tựu cao thường được so sánh với những đám mây bồng bềnh, “những hiện tượng đẹp đẽ, nhưng không cần nỗ lực để có được. Sự nhẹ nhàng như lông tơ của một đám mây mùa hè đang lơ lửng gợi lên cảm giác không trọng lượng đặc trưng cho những người bất tử, một cảm giác sinh ra từ sự tự do tuyệt đối khỏi sự chăm sóc và lo lắng.

   Học giả Đạo Gia Livia Kohn cho biết thêm rằng Kinh Thi (Shi Jing) sử dụng các cụm từ như "múa với tay áo bay" để mô tả những người bất tử, trong khi các văn bản khác đề cập đến "sống lâu và biến mất trong chuyến bay." Bà tiếp tục nói rằng “biến thể 'người và núi' có nghĩa là 'đến tuổi già và không chết', trong khi nhân vật 'múa tay áo' có nghĩa là 'di chuyển đi và vào núi. Do đó, hàm ý rõ ràng của thuật ngữ Tiên là nhân đôi. Đầu tiên, nó bao hàm ý tưởng về một cuộc cất cánh, một cuộc chia ly hình thành cuộc sống bình thường, có thể là trong một điệu nhảy xuất thần hoặc bằng cách đi vào núi; và thứ hai, khái niệm về tuổi thọ và sự tránh khỏi hoàn toàn cái chết. ”

   Không có một cách cụ thể nào để trở thành người bất tử. Người bất tử được sinh ra bình thường và đạt được sự bất tử nhờ nỗ lực rất nhiều. Họ đại diện cho một bộ phận dân cư, từ giàu đến nghèo và già đến trẻ, chứng minh rằng bất cứ ai cũng có thể trở thành bất tử. Vào thời nhà Hán, người ta tin rằng vật chất bất tử nếu ăn vào cơ thể có thể chuyển trạng thái bất tử cho con người. Do đó, có những câu chuyện về những người ăn các loại khoáng chất hoặc thảo mộc kỳ lạ để trở nên bất tử. Trong Truyền thống của những người siêu việt (Thần Tiên truyện Zhuan 神仙 傳), Cát Hổng (283-343 CN) đã kể lại những câu chuyện về những vị Thần Tiên thời kỳ đầu và tiểu sử của họ - một tài khoản hoặc tiểu sử không chính thức về cuộc đời, công việc và thành tích của một cá nhân siêu việt. Kết quả là Cát Hổng đã tập hợp nhiều phương pháp và sự kết hợp của các thực hành để đạt được sự bất tử. Cát Hổng coi sự thâm nhập của những phương pháp này là một cơ hội. “Mỗi kỹ thuật đều mang lại lợi ích; nhiệm vụ của người lão luyện là chọn lọc những yếu tố cần thiết từ mỗi thứ và kết hợp chúng thành một chương trình tự tu dưỡng cân bằng cẩn thận về nhiều mặt, được giới hạn bởi sự chuẩn bị của một trong những người hùng mạnh hơn. ”

   Như Kristofer Schipper, nhà nghiên cứu Đạo giáo đã chỉ ra, bất kỳ ai cũng có thể trở thành Tiên, “với điều kiện duy nhất là tìm thấy ngọn núi của mình, thoát khỏi vòng tròn sinh tử và khám phá ra sự trở lại với cuộc sống. Thậm chí không cần thiết phải hành động có chủ đích: may mắn và một khuynh hướng nào đó đôi khi có thể là điều kiện cần duy nhất, nhưng không có gì đảm bảo. Tuy nhiên, điều cần thiết là luôn luôn cởi mở và chuẩn bị để nhận ra, tại một thời điểm nhất định của cuộc đời một người, ngọn núi hoặc Tiên sẽ khởi đầu, mà một ngày nào đó sẽ được tìm thấy trên con đường của mọi người. Chính trong sự sẵn sàng và cởi mở này, chúng ta tìm thấy mọi vĩ độ có thể cho ý chí tự do và đức tin của mỗi cá nhân. ” Schipper tiếp tục nói rằng những trở ngại trên con đường này nằm trong chúng ta.



Bát Tiên

   Bát Tiên là những nhân vật phổ biến trong truyền thuyết và văn học Trung Quốc. Tám con số này được tìm thấy ở khắp các vùng văn hóa nói tiếng Trung Quốc, cũng như ở Nhật Bản. Một trong số họ là nhân vật lịch sử (Chung Li Quyền, Lã Động Tân và Trương Quả Lão), trong khi những người khác không rõ nguồn gốc. Người ta không biết tại sao cả tám lại được nhóm lại với nhau từ cuối triều đại nhà Đường (618–906 CN). Trong các giai đoạn tiếp theo, những câu chuyện về Bát Tiên tiếp tục được kể ở mọi tầng lớp trong xã hội và thường được dựng thành kịch trong Kinh kịch Trung Quốc. Bát Tiên đôi khi được miêu tả là người say rượu, mang theo bầu, bình hoặc thùng rượu. Có những bộ Khí Công được cho là từ Bát Tiên cũng như các phong cách luyện tập Công Phu chẳng hạn như Tám Tiên  Say. 

Câu chuyện Đạo giáo về Nguồn gốc của Túy Quyền kể rằng Bát Tiên trở nên say xỉn và phóng túng trong một bữa tiệc dành cho Mẹ Trái đất và phải bị đuổi ra khỏi nhà. Trong cuộc chiến sau đó, họ đánh người bảo vệ bằng Túy Quyền của mình. Chung Li Quyền (thủ lĩnh của Bát Tiên) sau đó đã xuất hiện với một Đạo sĩ, người được dạy cho Túy Quyền.

Tên các vị trong Bát Tiên

  1. Hán Chung Ly: Zhōng Lí Quán 鐘離權 Chung-li Ch’üan / Han Chung Li
  2. Lã Động Tân: Lǚ Dòng Bīn 呂洞賓 Lu Tung-Pin / Liu Dong Bin
  3. Lý Thiết Quải: Lǐ Tiě Guǎi 李鐵拐 Li T’ieh-kuai  / Tit Gwai Li
  4. Trương Quả Lão: Zhāng Guǒ Lǎo 張果老 Chang Kuo Lao / Cheung Guo Lo
  5. Hàn Tương Tử: Hán Xiāng Zi 韓湘子 Han Hsiang Tzu  / Han Sing Tu
  6. Hà Tiên Cô: Hé Xiān Gū 何仙姑 Ho Hsien-ku / Ho Sen Ku
  7. Lam Thái Hòa: Lán Cǎi Hé 藍采和 Lan Ts’ai-ho / Lam Choy Wah
  8. Tào Quốc Cữu: Cáo Guó Jiù 曹國舅 Ts’ao Kuo-ch’iu / Cho Quat Kau

Nhắc đến các vị tiên trong truyền thuyết, không thể không nhắc tới tám vị tiên huyền thoại với những pháp khí kỳ lạ trong “Bát tiên quá hải, các hiển thần thông” (tám vị tiên vượt biển, triển hiện thần thông). Vậy, những pháp khí đó là gì, và câu chuyện vượt biển ly kỳ này bắt đầu như thế nào?

Một ngày, Vương Mẫu nương nương mở yến hội bàn đào và mời các vị thần tiên cùng tới tham dự. Bởi Vương Mẫu nương nương là nữ Thọ tinh, cai quản việc luyện thuốc trường sinh ở núi Côn Lôn, do vậy hội bàn đào của bà cũng vô cùng đặc biệt.

Tương truyền, vườn đào tiên được chính Vương Mẫu nương nương tự tay vun trồng, có hết thảy 3.600 cây. Phía trước là 1.200 cây với hoa nhỏ trái nhỏ, 3.000 năm mới chín, người ăn đào này thì thân thể nhẹ nhàng, thanh xuân mãi mãi. Ở giữa là 1.200 cây, hoa nở thành tầng, trái thơm quả ngọt, 6.000 năm mới chín, ăn vào có thể cưỡi mây lướt gió, bay bổng lên chín tầng thiên. Phía sau là 1.200 cây, trái tím hạt vàng, 9.000 năm mới chín, người ăn vào sẽ phúc lộc cùng trời đất, thọ ngang cùng nhật nguyệt, mãi mãi bất lão trường sanh. Cho nên nói, bàn đào là vật báu của thiên địa mà chốn phàm trần không thể có.

bat tien trong dao lao trung hoa 9

Trong yến hội bàn đào, thần tiên khắp mười phương thế giới đều tề hội đông đủ, tiên khí bao phủ, mây lành vây quanh. Trong đó có tám vị tiên huyền thoại, được gọi là “Bát tiên”, đó là: Hán Chung Ly, Trương Quả Lão, Hàn Tương Tử, Lý Thiết Quải, Tào Quốc Cữu, Lã Động Tân, Lam Thái Hòa, và Hà Tiên Cô. Mỗi vị tiên nhân đều có một đặc điểm khác nhau. Tào Quốc Cữu là thân thích của một vị hoàng đế thời nhà Tống; Lý Thiết Quải có dáng vẻ giống như người ăn mày với một bên chân tật nguyền nên phải chống gậy sắt; Hà Tiên Cô là một thiếu nữ trẻ xinh đẹp; Trương Quả Lão là một cụ già tóc bạc, gương mặt hồng hào, râu tóc phất phơ, thường cưỡi ngược trên lưng một con lừa; Hàn Tương Tử là cháu trai của Hàn Dũ, một nhà văn triều Đường, đặc biệt yêu thích thổi sáo; Hán Chung Ly lúc nào cũng phe phẩy một cây quạt ba tiêu,... Họ đều là tiên nhân của Đạo gia, và thường tụ họp cùng nhau.

Trở lại với yến hội bàn đào, sau khi ăn uống no say, tám vị tiên nhân bái lạy Vương mẫu và cùng nhau quay về. Sau khi các vị tiên lên thuyền, Lã Động Tân đột nhiên nảy ra ý tưởng kỳ lạ, đề nghị mọi người không ngồi thuyền mà mỗi người hãy tự nghĩ cách để qua bờ bên kia.

Đầu tiên, Hán Chung Ly ném cây quạt ba tiêu xuống nước, rồi nằm ngửa trên đó để mặt quạt trôi đi. Lý Thiết Quải tháo bầu hồ lô đeo bên mình rồi thổi hơi vào, chiếc hồ lô biến thành lớn nổi trên mặt nước giống như một con thuyền, ông ngồi trên hồ lô tươi cười lướt sóng. Hà Tiên Cô cũng ném lá sen xanh xuống nước, trong phút chốc lá sen hoá lớn, Hà Tiên Cô nhẹ nhàng nhảy lên lướt sóng đuổi theo Lý Thiết Quải. Lam Thái Hoà ném chiếc giỏ trống, đáy giỏ vừa chạm mặt nước, trong giỏ liền có hoa tươi nở rực rỡ, Lam Thái Hoà tay cầm phách ngọc rẽ sóng mà đi. Hàn Tương Tử ném ống sáo rồi nhảy lên, ống sáo trôi như một chiếc tàu, Hàn Tương Tử miệng thổi sáo, chân đạp sáo sang bờ bên kia. Lã Động Tân ném cây bảo kiếm, trong vòng một trượng, sóng biển lặng yên. Tào Quốc Cữu tháo chiếc dây lưng ném xuống, Tào Quốc Cữu đứng trên dây giống như đứng trên lưng con rồng đang lắc đầu quẫy đuôi, rẽ sóng mà tiến. Trương Quả Lão cầm ngư cổ, từ tốn từ trong tay áo lấy ra một con lừa giấy, làm phép biến thành lừa thật rồi cưỡi ngược mà đi. Đây chính là câu chuyện “Bát tiên quá hải, các hiển thần thông” mà người ta vẫn nói.